Nâng cao khả năng tiếp cận với Đổi mới chẩn đoán cần thiết cho Phòng ngừa UHC và AMR (Nghiên cứu FIND)

Nghiên cứu nhằm so sánh tác động của liệu trình can thiệp và kết quả lâm sàng và tỷ lệ kê đơn thuốc kháng sinh.

Bối cảnh nghiên cứu

Việc kê đơn thuốc kháng sinh rộng rãi với mục đích phòng ngừa là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng kháng kháng sinh (AMR), dẫn đến khó khăn trong việc chữa trị các bệnh sốt cấp tính, từ đó tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong. Trong khi đó, nhiều bệnh nhân cần được điều trị với thuốc kháng inh thì lại không được tiếp cận với thuốc.

Cần phải có sự thích ứng trong việc quản lý thực tế để cải thiện các ca bệnh ở các nước có thu nhập thấp và trung bình (LMIC). Thành công sẽ đến từ việc thực hiện các bước tất yếu để đạt được mục tiêu kép là giải quyết AMR và cung cấp bảo hiểm y tế toàn dân (UHC).

COVID-19 hiện đã được coi là một bệnh sốt cấp tính trên toàn cầu và ở Nepal. Tỷ lệ bệnh nhân COVID-19 được kê đơn thuốc kháng sinh là rất cao, kể cả khi bệnh nhẹ. Hiện chưa có đầy đủ bằng chứng là thuốc kháng sinh có hiệu quả trong việc điều trị COVID-19 nhẹ. Việc thiếu các phương thức xét nghiệm rẻ và dễ tiếp cận cũng đồng nghĩa với việc nhiều người tự ý sử dụng thuốc kháng sinh theo kinh nghiệm dân gian.

Nghiên cứu này sẽ đánh giá hiệu quả của một liệu trình can thiệp bao gồm: Xét nghiệm chẩn đoán nhanh tại điểm chăm sóc (sử dụng COVID-19 Ag-RDTs), thuật toán chẩn đoán, quy trình tại phòng khám, đào tạo và giao tiếp cho bệnh nhân và người chăm sóc cho bệnh nhân. Hiệu quả được đánh giá dựa trên tỷ lệ kê đơn thuốc kháng sinh và kết quả lâm sàng ở những bệnh nhân mắc bệnh sốt cấp tính ở Nepal.

Câu hỏi được đặt ra trong nghiên cứu này sẽ là:

  • Ở những bệnh nhân đến phòng khám ngoại trú ở Nepal với bệnh sốt cấp tính / nhiễm trùng đường hô hấp không tiêu điểm và có RT-PCR âm tính / dương tính với SARS-COV-2 (Dân số),
  • bằng cách kết hợp các xét nghiệm chẩn đoán có sẵn, thuật toán chẩn đoán, quy trình điều trị của phòng khám và các công cụ đào tạo & giao tiếp cho người chăm sóc và người dùng (Can thiệp),
  • so với thực hành hiện tại (Nhóm kiểm soát),
  • cải thiện việc quản lý các bệnh sốt cấp tính và nhắm mục tiêu sử dụng kháng sinh hiệu quả hơn / giảm kê đơn kháng sinh không cần thiết sao cho phù hợp và khả thi (Kết quả).

Mục tiêu chính

Nghiên cứu nhằm so sánh tác động của liệu trình can thiệp và kết quả lâm sàng và tỷ lệ kê đơn thuốc kháng sinh, với thực hành hiện tại, ở trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn mắc bệnh sốt cấp tính tại các phòng khám ngoại trú ở Nepal. Sốt cấp tính được định nghĩa là sốt kéo dài dưới bảy ngày hoặc liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp trên / dưới hoặc không có bất kỳ tiêu điểm nào khác và với RT-PCR âm tính / dương tính đối với SARS-COV-2).

Mục tiêu thứ cấp

  1. Đánh giá sự tuân thủ các thực hành mới (can thiệp) của nhân viên y tế;
  2. Đánh giá việc tuân thủ đơn thuốc của người bệnh / người chăm sóc tại phòng khám ngoại trú;
  3. Đánh giá mức độ an toàn của liệu trình can thiệp so với thực hành chăm sóc hiện tại;
  4. Đánh giá tính khả thi của việc đưa COVID-19 Ag-RDT vào phương pháp chẩn đoán tích hợp đối với bệnh sốt cấp tính tại các cơ sở y tế.

Người tham gia

  1. Trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn hiện đang mắc hoặc tiền sử bệnh sốt cấp tính, tìm đến cơ sở chăm sóc sức khỏe. Sốt cấp tính được định nghĩa là sốt kéo dài dưới bảy ngày hoặc liên quan đến nhiễm trùng đường hô hấp trên / dưới hoặc không có bất kỳ tiêu điểm nào khác và với RT-PCR âm tính / dương tính đối với SARS-COV-2).
  2. Nhân viên y tế điều trị ngoại trú bệnh sốt cấp tính;
  3. Cha mẹ / Người giám hộ của trẻ em và người chưa thành niên đến cơ sở chăm sóc sức khỏe với con họ.
TÌM HIỂU THÊM

Liên quan

Civil Service Hospital

Bệnh viện Dịch vụ Dân sự Nepal

1650010016-83-patan-hospital – Edited

Bệnh viện Patan

siddhi

Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em Siddhi Memorial

Nepal Korea Friendship Municipality Hospital

Bệnh viện thành phố hữu nghị Nepal Hàn Quốc

Skip to content