Nghiên cứu mới tìm ra các chất chuyển hóa giúp dự đoán diễn biến bệnh lao màng não

Tryptophan trong dịch não tủy đã được xác định là một dấu hiệu của nguy cơ tử vong cao ở bệnh nhân lao màng não. Song, một câu hỏi được đặt ra: Liệu các chất chuyển hóa khác có thể đóng góp vào việc dự đoán kết quả điều trị không?

Nghiên cứu mới nhất của nhóm nghiên cứu Lao thuộc Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford (OUCRU), phối hợp cùng các đối tác từ Indonesia, Hà Lan và Hoa Kỳ, đã đi sâu phân tích dịch não tủy. Kết quả cho thấy, nhiều chất chuyển hóa trong dịch não tủy có liên hệ chặt chẽ với tiên lượng của bệnh nhân lao màng não, hứa hẹn mở ra những hướng tiếp cận mới trong điều trị. 

Lao màng não là một thể lao nặng với hơn 164.000 mắc phải trên toàn cầu vào năm 2019. Căn bệnh này phát sinh do cơ chế gây viêm quá mức tại màng não, tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Ngay cả khi bệnh nhân được áp dụng phác đồ điều trị lao tiêu chuẩn, bao gồm cả thuốc kháng viêm dexamethasone, thì một nửa số người mắc vẫn tử vong hoặc chịu biến chứng dài hạn. 

Các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết rằng các con đường chuyển hóacó thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị và giúp phát triển các liệu pháp hướng đến vật chủ  hiệu quả hơn. Họ đã thu thập và phân tích 619 chất chuyển hóa từ 1.067 mẫu dịch não tủy từ bệnh nhân lao màng não ở Indonesia và Việt Nam.  

Nghiên cứu sử dng k thuật sắc ký lỏng khi phổ không định hướng (LC-MS). Đây là mt nền tảng metabolomics tiên tiến do Viện Broad ca MIT và Harvard phát triển, nổi bật với độ nhạy cực cao, kh năng bao phủ rng các chất chuyển hóa phân tích chuyên sâu chỉ với một lượng dịch não tủy nhỏ. 

Các chất chuyển hóa giúp dự đoán diễn biến bệnh lao màng não 

Được công bố trên tạp chí Med, nghiên cứu đã xác định mười chất chuyển hóa nồng độ cao hơn những bệnh nhân tử vong do lao màng não trong vòng 60 ngày sau khi chẩn đoán. Bên cạnh tryptophan đã được báo cáo trong các nghiên cứu trưc đây, chín cht còn lại là những phát hin mới. Bao gồm các axit o hydroxyl hóa như 3-hydroxyoctanoate (FA 8:0;3OH), hydroxyisocaproate (FA 6:0;OH), hydroxyisobutyrate (FA 4:0;OH) một dẫn xuất liên quan C4-OH carnitine.  

Hình 1: Tổng quan nghiên cứu  

Các cht chuyển hóa này được chia thành hai nhóm cnh: axit béo và tryptophan. Chúng cho thấy liên hệ ràng với các ch s bệnh nng trên lâm sàng, như thang điểm hôn Glasgow, tổng s bạch cầu, tải lượng vi khuẩn nồng độ các cytokine gây viêm trong dịch não tủy. Đặc biệt, axit béo 8:0;3OH tryptophan hai chất liên quan chặt chẽ nhất đến nguy tử vong, ngay cả khi không xét đến GSC hay các yếu tố đánh giá mức độ nặng khác trước điều trị khác. 

"Chúng tôi đã xác định hai nhóm cht chuyển hóa gắn liền với tiên lượng xấu bệnh nhân lao màng não là axit béo và tryptophan.

Axit béo tăng caobnh nhân tải lượng vi khuẩn và và tình trạng viêm nng hơn, trong khi tryptophan lại được tìm thấy cao bệnh nhân có mc đ c hai thấp hơn. Điều này gi ý rằng nh
iều chế sinh học cùng thể ảnh hưởng đến tiên lượng ca bnh nhân lao màng não."

Nghiên cứu này mở ra nh cửa tìm hiểu sâu hơn về chế sinh học ảnh hưởng đến tiên lượng xấu của bệnh nhân lao màng não. Cùng với các đi tác quốc tế, nhóm nghiên cứu tại OUCRU do GS. Guy Thwaites, PGS. Nguyễn Thụy Thương Thương và TS. Lê Thanh Hng Nhật dn dắt, đang tiếp tục tìm hiểu vai t của gen di truyền, tương tác giữa chất chuyển hóa và protein trong nhiễm tng trước khi điều trị và cũng n s thay đổi khi bệnh nhân bắt đầu điều trị. 

Toàn bộ kết quả nghiên cứu đã được công bố trên Tạp chí Med.

Đối tác nghiên cứu:  
1. Trung tâm Y khoa Đại học Radboud, Hà Lan
2. Trung tâm Nghiên cứu Chăm sóc và Kiểm soát Bệnh truyền nhiễm, Đạib học Padjadjaran, Bandung, Indonesia
3. Viện Broad bởi MIT và Harvard, Cambridge, MA, Hoa Kỳ
4. Khoa Y, Đại học Indonesia, Jakarta, Indonesia
5. Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, Việt Nam

Skip to content